Góc nhìn chuyên gia: Để nông nghiệp Việt Nam ”cất cánh” (Bài 2)

Trong Bài 1: “Để nông nghiệp Việt Nam cất cánh: Thực trạng ngành nông nghiệp Việt Nam”, GS.TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã phân tích thực trạng, những tồn hạn, hạn chế và các thời cơ của ngành nông nghiệp Việt Nam. Cổng Thông tin điện tử Quốc hội tiếp tục giới thiệu phần 2 của bài viết “Để nông nghiệp Việt Nam cất cánh: Quan điểm và khuyến nghị một số giải pháp đột phá tháo gỡ nút thắt về thể chế, chính sách”.

 
 
 

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, sản xuất qui mô lớn, tập trung, chuyên canh là xu thế tất yếu, là con đường phát triển nông nghiệp của đa số các cường quốc nông nghiệp trên thế giới. Nông nghiệp Việt Nam tất yếu cũng phải đi theo con đường này.

Không ít các quốc gia đã trở lên giàu có và hùng cường nhờ biết chọn điểm tựa là nông thôn, nhờ biết chọn khâu đột phá là kinh tế nông nghiệp, đó là nền sản xuất và kinh doanh nông nghiệp dựa trên tư duy công nghiệp, tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ theo “kiểu công nghiệp”. Sự phát triển của các ngành “công nghiệp” này dựa vào 3 trụ cột chính: (i) Đổi mới sáng tạo được tôn vinh để luôn tạo ra và làm chủ các công nghệ vượt trội, (ii) Chuyên môn hóa cao, chuyên nghiệp hóa cao, và (iii) Quản trị hệ thống tiên tiến.

Nền tảng của nông nghiệp Việt Nam hôm nay là gần 10 triệu hộ tiểu nông riêng rẽ, với quan hệ chính là liên kết nhỏ. Trong tổng số gần 10 triệu hộ nông thôn, chỉ có 619 ngàn hộ tham gia mô hình liên kết “cánh đồng lớn” có diện tích 579 ngàn ha. Diện tích sản xuất được ký hợp đồng bao tiêu chỉ có 169 ngàn ha, gần 90% là hợp đồng sản xuất lúa. Nông dân phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống thương lái và các đại lý trong việc mua bán đầu vào và đầu ra. Nhu cầu tín dụng một phần phải trông vào thị trường tài chính phi chính thức ở nông thôn. Vì vậy, cần tập trung thu hút đầu tư của các doanh nghiệp đầu đàn, vào nông nghiệp, nhất là trong các lĩnh vực chế biến và xuất khẩu. Từ đó hình thành các chuỗi giá trị ổn định, gắn với các vùng nguyên liệu để có thể tiến tới xây dựng thành thương hiệu cho từng thị trường cụ thể.

 

Về nguyên tắc, chúng ta phải chuyển từ cơ cấu lại sản xuất chỉ dựa trên thay đổi kết cấu ngành hàng và sản phẩm hiện nay sang cơ cấu lại thực sự theo chiều sâu về ba lĩnh vực: một là giải quyết vấn đề thị trường cho nông sản; hai là áp dụng được KH&CN; ba là đổi mới thể chế tổ chức sản xuất nông nghiệp, cụ thể là phát triển kinh tế hợp tác và xây dựng chuỗi giá trị. Bởi đây chính là các điểm đột phá để thay đổi về cơ bản khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

Trong thời gian tới, với mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa và thương mại hóa với qui mô lớn, với yêu cầu phát triển nông nghiệp một cách toàn diện và bền vững, xu hướng hội nhập quốc tế đang mở ra nhiều cơ hội song cũng tạo ra nhiều thách thức, đòi hỏi cần phải nhanh chóng tháo gỡ các nút thắt thể chế và công nghệ. Để có thể xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam tiên tiến, cần tập trung mạnh vào tạo môi trường thuận lợi cho hình thành các chuỗi giá trị nông sản có hiệu quả và bền vững dựa trên lợi thế so sánh của từng vùng miền, từng địa phương. Tiếp tục tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng; nghiên cứu và ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ chế biến và chế biến sâu nông sản, tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ; đa dạng hóa thị trường, trong nước và xuất khẩu.

Huy động đầu tư toàn xã hội để phát triển nông nghiệp đồng bộ cả về sản xuất, chế biến và kinh doanh; biến nông nghiệp thành nhân tố đột phá phát triển kinh tế xã hội, khởi động và tạo đà cho CNH, HĐH đất nước. Nông thôn là thị trường và là địa bàn rộng lớn nhất để tiến hành CNH, HĐH và đô thị hóa đất nước.

Cần có một hệ thống chính sách đột phá đủ sức khuyến khích nông dân tham gia xây dựng hợp tác xã (HTX), tạo điều kiện để HTX phát triển vượt trội về quỹ đất xây dựng cơ bản, cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư, máy móc, trang thiết bị.

 Nông thôn là thị trường và là địa bàn rộng lớn nhất để tiến hành CNH, HĐH và đô thị hóa đất nước.

 

Liên minh HTX phải được phân cấp để có năng lực tham gia cung cấp vốn, vật tư, thiết bị cho nông dân và kinh doanh tiêu thụ nông sản, trở thành chỗ dựa chính, hỗ trợ nông dân trên thị trường. Các HTX phải thay thế được các thương lái trung gian để làm tốt 3 nhiệm vụ: giúp nông dân mua chung vật tư đầu vào, bán chung nông sản đầu ra và cung cấp cho xã viên các dịch vụ hỗ trợ sản xuất thiết yếu. Trên cơ sở đó, tham gia các hoạt động phát triển sản xuất, bảo vệ sản xuất, nâng cao đời sống và phúc lợi cho xã viên HTX nói riêng và cư dân nông thôn nói chung.

Cơ chế quản lý nhà nước cần đổi mới, không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ tìm kiếm lợi nhuận mà sẽ giao các hoạt động này cho tư nhân và nông dân tiên tiến, thông qua các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp và liên minh HTX và Hội Nông dân. Nhà nước tập trung vào các hoạt động quản lý vĩ mô như xây dựng chiến lược, ban hành chính sách, đàm phán pháp lý, hỗ trợ phát triển thị trường, tập trung vào cung cấp các dịch vụ công mà hộ nông dân và HTX chưa thể tự đảm đương được.

 

Để công cuộc tài cơ cấu nông nghiệp gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thành công, những phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp nêu ra phải hướng vào việc hóa giải cho được các “nút thắt” nêu trên, sát hợp với tình hình cụ thể của đất nước và bối cảnh quốc tế, đặt phát triển nông nghiệp trong dòng chảy của đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Trong đó nên chú trọng đến 16 giải pháp cụ thể sau:

1. Nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về tầm quan trọng của nông nghiệp và lợi thế nông nghiệp của Việt Nam. Cần làm cho toàn xã hội, nhất là các cơ quan quản trị quốc gia, các cá nhân có vai trò trong hoạch định chính sách và người nông dân, nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về tầm quan trọng của nông nghiệp và lợi thế nông nghiệp của Việt Nam. Từ đó, có những chính sách đúng, quyết sách đủ tầm nhằm tạo động lực và khơi thông các nguồn lực, phát huy cao nhất nội lực, để nông nghiệp Việt Nam có thể cất cánh thực sự theo đường băng phát triển bền vững trên cơ sở lợi thế so sánh. Trong đó, cần giải quyết hài hòa các mối quan hệ lớn trong tiến trình phát triển NN, NT, ND, lấy đổi mới sáng tạo là chìa khóa, thực sự coi noogn dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.

2. Đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn kết hữu cơ giữa phát triển nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ, phát triển đô thị và nông thôn, tiếp tục thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới. Việc cơ cấu lại nông nghiệp cần tập trung mạnh vào cơ cấu lại đầu tư công và dịch vụ công, tạo môi trường thuận lợi cho hình thành có hiệu quả và bền vững các chuỗi giá trị nông sản dựa trên lợi thế so sánh của từng vùng miền, từng địa phương.

Tiếp tục tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng; nghiên cứu và ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ sản xuất và chế biến, chế biến sâu nông sản, tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, có khả năng cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ; đa dạng hóa thị trường 100 triệu dân trong nước và xuất khẩu.

 

3. Gắn kết hữu cơ giữa phát triển đô thị và phát triển nông thôn, giữa phát triển nông nghiệp và công nghiệp. Để thực hiện mục tiêu nâng tỷ lệ đô thị hóa từ 38,4% năm 2019, dự kiến vượt mốc 40% vào năm 2020 lên trên 50% vào năm 2035 mà không vướng phải các bất ổn xã hội mà các nước khác đã và đang vấp phải, có lẽ chúng ta nên học tập mô hình đô thị hóa nông thôn của một số nước và vùng lãnh thổ, điển hình là Đài Loan (Trung Quốc). Họ đã khôn khéo lựa chọn mô hình phát triển bao trùm, với đặc điểm là gắn kết đô thị lớn với phát triển nông thôn, hình thành mạng lưới đô thị vệ tinh trong các vùng “lõi” nông nghiệp, đẩy mạnh và ưu tiên quá trình đô thị hóa nông thôn (đô thị địa phương), phân cấp chức năng cho đô thị nhỏ, hình thành hệ thống đô thị – nông thị trên cả nước, ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp.

Điều đó đã tạo ra “thị trường cả nước, sức mua toàn dân”. Hệ thống các đô thị này thực sự trở thành động lực để phân công nguồn lực, thu hút công nghiệp về nông thôn, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp để tái cơ cấu nông nghiệp, tạo ra các loại hình sinh kế phi nông nghiệp, hình thành thị trường lao động chính thức ở khu vực nông thôn.

Đô thị hóa nông thôn không phải là bê mô hình nhà ống, các biệt thự từ phố thị về thôn quê mà là tạo ra các sinh kế mới phi nông nghiệp cho nông dân, tạo ra điều kiện sống như đô thị, tạo cơ hội cho một người dân nông thôn như một người dân đô thị, tạo cơ hội cho mọi đứa trẻ sinh ra ở nông thôn cũng có cơ hội phát triển như một đứa trẻ sinh ra ở đô thị.

Xen lẫn thôn quê, các vùng nông nghiệp, các vùng nguyên liệu là các thành phố, các đô thị xanh hiện đại, văn minh, đẹp chỉ với một vài triệu dân, với các nhà máy chế biến nông sản, trung tâm thu mua nông sản, tạo ra các vùng lõi đô thị trong nông thôn.  

4. Thực hiện quy hoạch nông nghiệp “thông minh” hướng tới thị trường mở. Cần thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp cho cả mục tiêu ngắn hạn (10-20 năm), trung hạn (20-30 năm) và dài hạn (50 hay 100 năm), để có chiến lược bảo tồn và sử dụng đất nông nghiệp thiết thực và hiệu quả trước khi thực hiện các quy hoạch phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị.

Đối với các loại đất nông nghiệp, cần tạo điều kiện cho người sử dụng đất quyết định phương thức sử dụng từng loại đất phù hợp theo tín hiệu thị trường hơn là cố định phương thức sử dụng cho từng loại đất.

Rõ ràng là rất cần một đại quy hoạch mới về nông thôn, để có cảnh sắc nông thôn, để có kiểu dáng nhà cửa nông thôn và những gì sâu hơn thế nữa. Về đại thể, có thể chia nông thôn thành 3 khu vực chính:

Thứ nhất, các làng nông nghiệp cổ truyền, cần gạn đục khơi trong để giử lại các nét cổ xưa của mỗi ngôi làng Việt, phục vụ phát triển du lịch và bảo tồn văn hóa, đa dạng sinh học; các làng này có thể ở ngay gần các khu đô thị (như Đường Lâm của Hà Nội) hay ở các vùng sâu vùng xa. Nguồn sống ở đây là kinh tế nông nghiệp và kinh tế du lịch.

Thứ hai, vùng chuyên canh nông nghiệp lớn với các thị trấn thị tứ, đây là các đô thị lõi trong vùng nguyên liệu, cung cấp nông sản cho các nhà máy chế biến và chế biến sâu.

Hiện nay, chúng ta đang thiếu cơ chế, thể chế hình thành vùng nguyên liệu mặc dù đã có các nghị quyết về liên kết vùng đã ban hành. Muốn chế biến sâu phải có nhà máy hiện đại và có nhà máy hiện đại đòi hỏi vùng nguyên liệu đủ lớn. Bài học từ việc tỉnh Sơn La không đủ rau quả nguyên liệu cho một dây chuyền chế biến sâu trị giá 400-500 tỷ của Doveco là bài học cho cả doanh nghiệp và địa phương trong việc hợp tác để xây dựng vùng nguyên liệu.

Thứ ba, vùng đô thị nông thôn, phải là các đô thị xanh ở các vùng đông dân, với các kiểu nhà vườn kết hợp truyền thống và hiện đại, lao động phi nông nghiệp là chính, kiểu như Ecopark.

Cả 3 vùng này đều mở rộng các không gian sinh hoạt cộng đồng, tín ngưỡng, văn hóa, đậm nét vùng miền của các dân tộc anh em, đẩy mạnh hoạt động du lịch. Nếu có thể, thì sắp xếp lại các làng theo từng cụm với các nét tương đồng về văn hóa, phong tục, cảnh quan, nông sản… có hệ thống giao thông thuận tiện kết nối các làng lại với nhau tạo thành từng cụm làng, đây cũng là các cụm kinh tế, vùng nguyên liệu, cụm văn hóa, với xương sống là nông nghiệp và du lịch, có thị tứ thị trấn là ‘đô thị’ của làng quê.

 

5. Xây dựng và phát triển tầng lớp nông dân mới, nhằm đổi mới chất lượng lao động nông nghiệp. Nông nghiệp thời hội nhập cần phải có đội ngũ những người nông dân mới; do đó nhất thiết phải đầu tư phát triển nhân lực trong nông nghiệp để nông dân Việt Nam thực sự là những người lao động nông nghiệp chuyên nghiệp, tổ chức sản xuất nông nghiệp theo tư duy công nghiệp; Làm nông nghiệp là kinh doanh nông nghiệp, làm nông nghiệp là một nghề, bình đẳng và cao quý như tất cả các ngành nghề khác; nhà nước có kế hoạch và chương trình hành động thiết thực để đổi mới về chất lượng lao động nông thôn trong giai đoạn “cửa sổ vàng” tuổi dân số còn mở.

Cùng với hệ thống chính sách đồng bộ về nông nghiệp, nông thôn, đất đai và đầu tư công, vấn đề sống còn mang tính quyết định đến sự thắng lợi của công cuộc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong những năm tới là xác định được “chân dung” và từ đó hình thành tầng lớp nông dân mới.

Để có tầng lớp nông dân mới, có 2 vấn đề cốt tử nhất, đó là (i) đào tạo họ thành các nông dân chuyên nghiệp, thích làm ruộng, biết làm ruộng, hạnh phúc với đồng quê, yêu mến và tôn trọng thiên nhiên và dám làm giầu cho minh và cho cộng đồng từ sản xuất-kinh doanh nông nghiệp, và (ii) Nhà nước trao quyền cho họ, và cùng họ vận hành các hoạt động sản xuất-kinh doanh nông nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ thế, họ có đủ năng lực và phẩm chất, không gian pháp lý và thể chế, để họ đủ khả năng làm chủ và là trung tâm của nông nghiệp trên thực tế, ko còn là chủ và trung tâm trên các văn bản hay trên các phương tiện truyền thông.

Nhà nước cần có các chương trình, các chính sách phù hợp, tập trung và đủ mạnh để đào tạo thanh niên nông thôn và những người thực sự muốn làm nông nghiệp, coi đó là chính sách phát triển, là đầu tư cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, để có các nông dân chuyên nghiệp, đủ sức làm chủ ruộng đồng, làm chủ công nghệ và kĩ thuật, làm chủ thị trường, đủ sức vươn ra quốc tế, kiểu như là “nông dân toàn cầu”.

Trong thời đại hiện nay, trao quyền cho nông dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là động lực chính cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới để nông dân thực sự là chủ thể, là chủ và làm chủ ruộng đồng, làm chủ nông thôn. Động lực do đất đai mang lại như thời Khoán 10 không còn nhiều nữa; Trao quyền là tạo ra cơ hội, mở ra cơ hội cho người dân thể hiện quyền làm chủ, phát huy sức mạnh của từng người nông dân, từng hộ nông dân, của cả cộng đồng nông thôn.

Một khi được trao quyền với các khế ước xã hội tạo động lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, họ sẽ khởi tạo nên một thời đại mới của nông nghiệp Việt Nam, của nông thôn Việt Nam; họ sẽ đủ sức hiện thực hóa Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thành sức mạnh vật chất trên ruộng đồng, trong mỗi làng mạc và ở từng ngôi nhà của người nông dân.

 Trao quyền cho nông dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là động lực chính cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

 

6. Nhà nước thực sự đóng vai trò kiến tạo trong quá trình chuyển đổi sâu rộng nông nghiệp và nông thôn, mấu chốt là cải thiện đầu tư công và cải thiện dịch vụ công trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn thông qua các chính sách hạn chế việc quy hoạch sử dụng đất cố định dài hạn, giải quyết dứt điểm các tồn tại và khuyết tật của mô hình nông lâm trường quốc doanh để các đơn vị kinh tế này thể hiện rõ vai trò kinh tế nhà nước trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Xem xét khả năng đầu tư trực tiếp vào các chuỗi giá trị nông sản, nhất là tiêu thụ sản phẩm cho nông, trực tiếp tham gia buôn bán sản phẩm nông nghiệp, đồng thời là chủ thể xử lý rủi ro nông nghiệp. Tăng cường hỗ trợ đổi mới, không chỉ giới hạn trong nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, khuyến nông, mà còn trong xây dựng các quy định hỗ trợ phát triển thị trường đất đai, nhất là những cơ chế chính sách để tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm thúc đẩy quy mô sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn, tạo môi trường thuận lợi cho cơ giới hóa, áp dụng KH&CN và đầu tư vào logistics nông nghiệp, hỗ trợ kết nối giữa nông dân và doanh nghiệp.

Nhà nước cần có chính sách quản lý rủi ro trong sản xuất, kinh doanh, trong đó có việc xây dựng cơ chế quản lý rủi ro, giảm thiểu, chia sẻ rủi ro với hộ nông dân thông qua Quỹ Bảo hiểm nông nghiệp, quỹ tự nguyện hỗ trợ sản xuất của HTX; cung cấp thông tin thị trường; thực hiện vai trò đồng quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng quản lý an toàn thực phẩm, đồng quản lý vật tư nông nghiệp.

Nhà nước tập trung vào các hoạt động quản lý vĩ mô như xây dựng chiến lược, ban hành chính sách, đàm phán pháp lý, hỗ trợ phát triển thị trường, tập trung vào cung cấp các dịch vụ công mà hộ nông dân chưa thể tự đảm đương được. Không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ tìm kiếm lợi nhuận… giao các hoạt động này cho tư nhân và nông dân, thông qua các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp và liên minh hợp tác xã và hội Nông dân.

Hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm mạnh các rào cản về điều kiện kinh doanh nông nghiệp, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, cũng như các cơ chế chính sách hỗ trợ để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Tập trung thúc đẩy hoạt động liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị với vai trò dẫn dắt kinh tế nông thôn thuộc về doanh nghiệp. 

 

7. Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp bằng các hình thức hợp tác, tổ chức liên kết, có sự tham gia sâu rộng của các doanh nghiệp, trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp và hiệu quả, áp dụng chính sách hỗ trợ đột phá để khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, xây dựng HTX kiểu mới. Trong đó HTX là một tác nhân trong chuỗi, giữ vai trò quy tụ nhiều nông dân nhỏ để “làm bạn” với doanh nghiệp lớn. Liên minh hợp tác xã phải được phân cấp để có năng lực tham gia cung cấp vốn, vật tư, thiết bị cho nông dân và kinh doanh tiêu thụ nông sản, trở thành chỗ dựa chính, hỗ trợ nông dân trên thị trường.

Quan tâm chuyển từ tư duy trọng cung sang trọng cầu (còn gọi là chuyển tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp). Muốn vậy, hoàn thiện thế chế, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm mạnh các rào cản về điều kiện kinh doanh nông nghiệp, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, cũng như các cơ chế hỗ trợ để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Coi doanh nghiệp nông nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có gốc gác từ sản xuất nông nghiệp có vai trò trụ cột trong thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Tập trung thúc đẩy hoạt động liên kết sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị với vai trò dẫn dắt kinh tế nông thôn thuộc về doanh nghiệp; bố trí ngân sách các cấp thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn (Nghị định số 57/2018/NĐ-CP). Đây sẽ là động lực mới để NN nước ta nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trong giai đoạn tới.

8. Đặc biệt quan tâm đến công tác phát triển thị trường, chú trọng đến thị trường 100 triệu dân trong nước với tầng lớp trung lưu lên đến cả chục triệu người. Dần hình thành văn hóa: Nông sản nào ngon, quý, chất lượng nhất thì ưu tiên để dân trong nước tiêu dùng.

Đồng thời với phát triển thị trường trong nước, cần xây dựng kế hoạch tận dụng các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTAs), đặc biệt là Hiệp định EVFTA, RCEP, CPTPP để đẩy mạnh xuất khẩu các hàng nông sản chủ lực sang các nền kinh tế có cơ cấu bổ sung với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Liên minh Châu Âu, Trung Đông, ASEAN.

Duy trì và phát triển bền vững thị trường Trung Quốc và mở rộng thị trường nông sản sang các vùng lãnh thổ có tiềm năng khác. Nghiên cứu đổi mới tổ chức quản lý các ngành hàng nông sản, thử nghiệm hình thành “Ban điều phối ngành hàng” đủ sức làm chủ thị trường nông sản trong và ngoài nước.

9. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ KH&CN làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng. Đây là vấn đề cốt tử để người Việt Nam làm chủ các công nghệ nguồn, các bài toán lõi, làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất – kinh doanh, giá trị gia tăng của nông sản. Nghiên cứu đề xuất đổi mới cơ chế chính sách huy động đa dạng các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến, chế biến sâu, dịch vụ hỗ trợ và logistics.

10. Cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, để không còn nữa làng “ung thư”, làng “ô nhiễm”. Môi trường nông thôn không chỉ là môi trường sống cho cư dân, mà đây còn là môi trường tạo ra niềm tin của chất lượng nông sản, môi trường cho sức mạnh cạnh tranh của nông phẩm, tạo ra giá trị gia tăng cao cho nông sản Việt, tạo ra năng suất lao động cao của nghề nông…

11. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý rủi ro và các loại dịch bệnh. Trong đó cần tập trung nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo từ xa, quản lý và ứng phó rủi ro liên quan đến thời tiết và giảm thiểu tác động của BĐKH, của dịch bệnh (cũng như các rủi ro về thị trường). Tăng cường đầu tư công vào các công trình phòng, chống thiên tai, dự báo, giám sát và phòng ngừa dịch bệnh. Cải thiện hệ thống dự báo, cảnh báo sớm thời tiết, dịch bệnh và gắn kết hệ thống này với dịch vụ tư vấn nông nghiệp. Xây dựng năng lực nghiên cứu và phát triển để có thể giải quyết được những thách thức mới nảy sinh của quá trình BĐKH. Các địa phương, nhất là các tỉnh ở vùng thấp, cần có kế hoạch ứng phó kịp thời, chủ động bố trí sản xuất NN phù hợp. Quán triệt tư duy nền kinh tế xanh trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

12. Xây dựng và thực thi chiến lược quốc gia về An ninh chuỗi cung ứng. Việc tổ chức lại chuỗi cung ứng các ngành hàng nông sản, nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng để đối phó với dịch bệnh, các thảm họa tự nhiên và các bất ổn về địa-chính trị hay các rủi ro về tài chính, giá cả… với mục đích không gì khác ngoài việc Việt Nam cần và phải trở thành một quốc gia tự chủ, tự cường. 

Để thúc đẩy nền kinh tế cho năng suất cao hơn, chất lượng hơn, bền vững hơn Việt Nam cần tăng cường kết nối sản xuất trong nước vào các chuỗi cung ứng mới ở khu vực và toàn cầu; nhưng cần đặc biệt chủ động xây dựng chiến lược quốc gia về An ninh chuỗi cung ứng.

Ở các mức độ khác nhau, các quốc gia đều cần tính đến an ninh chuỗi cung ứng của mình với tư cách một chủ thể độc lập và một mắt xích của mạng lưới sản xuất và lưu thông của khu vực hoặc toàn cầu, trong đó việc phát triển nhanh chóng các công nghệ và kỹ thuật trong kỷ nguyên công nghiệp 4.0 là then chốt, nhằm đảm bảo tính tự chủ bên trong và thích nghi với những rủi ro bên ngoài.

Để thúc đẩy nền kinh tế cho năng suất cao hơn, chất lượng hơn, bền vững hơn (cả trên khía cạnh chính trị, kinh tế và môi trường) Việt Nam cần tăng cường kết nối sản xuất trong nước vào các chuỗi cung ứng mới ở khu vực và toàn cầu nhưng cần đặc biệt chủ động tổ chức lại chuỗi cung ứng các ngành hàng nông sản nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng để đối phó với dịch bệnh, các thảm họa tự nhiên và các bất ổn về địa chính trị hay các rủi ro về tài chính, giá cả… để đảm bảo cho việc trở thành một quốc gia tự chủ, tự cường, lấy nông nghiệp làm nền tảng.

 Nông thôn mới là nơi lưu giữ hồn cốt Việt, tâm hồn Việt, các giá trị văn hóa cốt lõi của người Việt. (ảnh minh họa)

 

13. Gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa với nòng cốt là phát triển cộng đồng thôn bản, làng xóm. Nông thôn mới là nơi lưu giữ hồn cốt Việt, tâm hồn Việt, các giá trị văn hóa cốt lõi của người Việt; xã, huyện, tỉnh chỉ là các đơn vị hành chính trong quản lý nhà nước, có thể chia tách, sáp nhập, còn làng xóm thì không. “Nhà” và “làng” đã và mãi làm nên sức mạnh Việt Nam; không phải ngẫu nhiên mà trong từ vựng của người Viêt lại có từ “làng nước”, “nước nhà”, có làng mới có nước, có nhà (hộ gia đình) mới có nước!

14. Cần đổi mới nhận thức về đất đai và Đầu tư công

Đất đai vừa là nhu cầu căn bản, vừa là khát vọng lớn nhất của người nông dân. Khi nói về đất đai ở nông thôn, vấn đề được nhiều người quan tâm và tranh biện là các khái niệm về “sở hữu toàn dân”, “quyền sở hữu”, “quyền sử dụng”, về những thua thiệt của người nông dân trong quá trình phát triển và hội nhập…

Những vướng mắc chính trong công tác quản lý đất đai ở nước ta hiện nay chủ yếu là do nhận thức trong chính sách quản lý nhà nước về đất đai chưa được đồng nhất; lý lẽ về thiết chế quyền sở hữu đất đai chưa đủ sức thuyết phục; chế độ giao quyền sử dụng đất chưa được hoàn chỉnh; giá trị kinh tế đất đai chưa được xác định đúng; phân loại đất đai còn bất cập; quản lý đất đai còn lỏng lẻo, lãng phí…

Vì vậy, trong lần sửa đổi Luật Đất đai tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV cần cần phải qui định rõ ràng và thuyết phục nhà nước trung ương được làm những gì và không được làm những gì, nhà nước địa phương (chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã) được làm những gì và không được làm những gì, cơ quan quản lý chuyên ngành nhà nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và cấp dưới của cơ quan này được làm những gì và không được làm những gì…

Luật Đất đai hiện hành và các văn bản dưới luật cũng chưa đưa ra được một bộ nguyên tắc thống nhất, công bằng và minh bạch về quyền tiếp cận đất đai. Điều này tạo ra sự mập mờ và bất định trong quản lý đất đai.

Về vấn đề đầu tư công, chênh lệch quá lớn về đầu tư công giữa nông thôn – thành thị có tác dụng tiêu cực, hạn chế năng suất nông nghiệp, giảm những cơ hội để nông dân và cư dân nông thôn tạo ra thu nhập và của cải ngay tại địa phương, làm nghiêm trọng thêm vấn đề đói nghèo, giảm tiềm năng phát triển đô thị, công nghiệp.

 Một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để tăng phúc lợi cho vùng nông thôn và giảm nghèo bền vững là phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.

 

Một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để tăng phúc lợi cho vùng nông thôn và giảm nghèo bền vững là phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Tăng đầu tư để cải thiện cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khác cho nông nghiệp đòi hỏi phải có ngân sách.

Do nguồn lực được ưu tiên đầu tư cho các khu vực khác, tăng trưởng nông nghiệp đang mất đi sự năng động. Từ 1990 đến 2000, sản lượng nông nghiệp tăng trung bình 5.9%/năm trong khi từ 2000-2008 tăng trưởng còn 4.2%/năm, và giai đoạn 2011-2020 chỉ còn 2,83%.

Do đó, cần phải cơ cấu lại đầu tư công và dịch vụ công nhằm cân đối đầu tư công khu vực đô thị và nông thôn. Việc điều tiết lớn lao này không thể do thị trường, đó là trách nhiệm của nhà nước. Chính sách công có một tác động rất lớn để chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang đa dạng hơn, đa giá trị hơn, nghĩa là người dân nông thôn có nhiều sinh kế mới hơn; điều đó sẽ chèo lái tâm lý dân chúng, giúp họ vì những lợi ích cá nhân mà ở lại nông thôn.

Cần cải thiện đầu tư công và cải thiện dịch vụ công trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn thông qua các chính sách hạn chế việc quy hoạch sử dụng đất cố định dài hạn. Giải quyết dứt điểm các tồn tại và khuyết tật của mô hình nông lâm trường quốc doanh để các đơn vị kinh tế này thể hiện rõ vai trò kinh tế nhà nước trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các quy định hỗ trợ phát triển thị trường đất đai, nhất là những cơ chế chính sách để tích tụ, tập trung ruộng đất nhằm thúc đẩy quy mô sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn.

Tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư vào logistics nông nghiệp, hỗ trợ kết nối giữa nông dân với nông dân (HTX, hiệp hội ngành nghề) và doanh nghiệp với doanh nghiệp và nông dân với doanh nghiệp. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp nông thôn, nhất là công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp, tạo động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.

Cần đầy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. (ảnh minh họa) 

 

Nhà nước cũng cần có chính sách quản lý rủi ro trong sản xuất, kinh doanh, trong đó có việc xây dựng cơ chế quản lý rủi ro thông qua Quỹ Bảo hiểm nông nghiệp, quỹ tự nguyện hỗ trợ sản xuất của hợp tác xã; cung cấp thông tin thị trường; thực hiện vai trò đồng quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng quản lý an toàn thực phẩm và vật tư nông nghiệp.

15. Chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu. Cần khuyến khích các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp chủ chuỗi đầu tư vào nông nghiệp bằng cách: (i) Tiếp tục đầu tư công và nâng cao hiệu quả đầu tư công vào nông nghiệp: hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi; (ii) Cung cấp các dịch vụ công cho nông nghiệp (hợp pháp hoá các hoạt động tích tụ tập trung đất đai, dịch vụ thú ý, bảo vệ thực vật, thuỷ nông, cấp mã vùng, hướng dẫn truy suất nguồn gốc… để kiến tạo hình vùng nguyên liệu lớn để đủ công suất của các nhà máy chế biến sâu; (iii) Cần có cơ chế chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư để hình thành vùng nguyên liệu và liên kết vùng.

16. cần xác định điểm ưu tiên cho ứng dụng công nghệ cao phục vụ cho chuyển đổi số trong nông nghiệp ở các khâu then chốt có thể làm ngay: (i) Truy xuất nguồn gốc; (ii) Giao dịch và tiêu thụ nông sản.

 

Về cơ bản, chúng ta phải chuyển từ tái cơ cấu sản xuất chỉ dựa trên thay đổi kết cấu ngành hàng và sản phẩm hiện nay sang tái cơ cấu thực sự theo chiều sâu về ba lĩnh vực: một là giải quyết vấn đề thị trường cho nông sản; hai là áp dụng được khoa học và công nghệ; ba là đổi mới thể chế tổ chức sản xuất nông nghiệp, cụ thể là phát triển kinh tế hợp tác và xây dựng chuỗi giá trị. Đây mới chính là các điểm đột phá để thay đổi về cơ bản khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

Nếu vậy, cần quan tâm đến các nội dung sau trong phát triển:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế khu vực nông thôn, trong tăng trưởng phải chú ý đến tiến bộ xã hội, chú trọng đến vấn đề công bằng trong phát triển;

Thứ hai, tăng phúc lợi từ điều chỉnh lợi ích xã hội, nhà nước chịu trách nhiệm về việc điều chỉnh và phân phối phúc lợi này, thể hiện qua chính sách đất đai, phát triển NN và đầu tư công;

Thứ ba, xây dựng nông thôn mới văn minh hiện đại; Muốn vậy, phải phá được 3 nút thắt trong kinh tế nông thôn: hạ tầng, chất lượng nhân lực, và quản trị cộng đồng. Lưu ý là, nông thôn văn minh, hiện đại khác một thành phố văn minh, hiện đại; điều đó cần được thể chế hóa trong các tiêu chí nông thôn mới để nông thôn vẫn là nông thôn, nơi chứa đựng văn hóa và văn hiến Việt, đồng thời thực sự trở thành nơi đáng sống./. 

 

GS.TS Trần Đức Viên

Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *