Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội chất vấn Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Vấn đề được đại biểu, cử tri quan tâm là những giải pháp để khu vực nông nghiệp tiếp tục phát huy vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế; giải pháp đột phá nào để tháo gỡ nút thắt về thể chế, chính sách, giúp ngành nông nghiệp tiếp tục bứt phá nhanh và bền vững? Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu loạt bài viết của GS.TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam với chủ đề “Để nông nghiệp Việt Nam cất cánh”.
Nông nghiệp – Điểm tựa cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được các kỳ vọng về một quốc gia hùng cường và thịnh vượng, về một dân tộc văn minh và phát triển, được cộng đồng quốc tế nể trọng và ngưỡng mộ.
Một đất nước muốn phát triển được thì phải có nội lực, biết dựa vào nội lực, phát huy sức mạnh vật chất và tinh thần của các nguồn lực ấy. Xét về tiềm lực cơ sở vật chất, nhân lực và quản trị xã hội cũng như trình độ khoa học và công nghệ (KH&CN), chúng ta khó có thể trở thành nước công nghiệp theo cách mà các nước phương Tây đã đi trong suốt hơn 2 thế kỷ qua. Chúng ta phải lấy điểm tựa cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước từ nông nghiệp; CNH, HĐH trước hết là cho nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đó mới là gốc, đó mới là sức mạnh nội sinh của chúng ta!
Nghề gì là nghề chính của nước ta, có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến sự ổn định xã hội và phát triển của đất nước? Nông nghiệp! Nông nghiệp không chỉ giúp ổn định cuộc sống cho phần lớn dân cư nông thôn (“yên dân”), mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế-xã hội và ổn định chính trị, tạo tiền đề để hiện thực hóa khát vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước từ một quốc gia có nền nông nghiệp còn chưa phát triển.
Ngành kinh tế nào là ngành kinh tế quan trọng nhất của đất nước, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, có ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ nhất đến sự ổn định xã hội và phát triển của đất nước? Kinh tế nông nghiệp! Còn theo như lời Bác Hồ dạy thì đó phải là “nền kinh tế lấy canh nông làm gốc…”.
Bác Hồ dùng thử máy cấy tại Trại thí nghiệm lúa thuộc Sở Nông lâm Hà Nội năm 1960. Ảnh tư liệu |
Vì vậy, thực tế nhất là hãy đi từ sức mạnh nội tại, từ lợi thế so sánh của đất nước, đó là CNH, HĐH đất nước từ nông nghiệp, bằng nông nghiệp; CNH, HĐH trước hết và cơ bản là CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, chứ không phải bằng phát triển các cực tăng trưởng với những thành phố công nghiệp.
Ở một đất nước, khi nói đến Nhân dân là nói về nông dân như Việt Nam, các chính sách phát triển đều phải hướng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (NN, NT, ND), với tâm thế tri ân và tôn trọng nông dân, người chủ đích thực của sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, nguồn lực trung tâm của phát triển nông thôn, xuất phát từ ước nguyện và khát vọng của họ.
Nông dân chỉ bám ruộng khi nông sản được giá, nông sản chỉ có giá khi được người mua tin dùng, cái vốn xã hội lớn lao dành cho nông sản Việt Nam chỉ có thể tạo ra với một thái độ rõ rệt và hành động quyết liệt thể hiện qua chính sách của nhà nước về CNH, HĐH và đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn, với vai trò quyết định sự thành bại của công cuộc này thuộc về người nông dân.
Để phát huy sức mạnh nội tại, Nhà nước chỉ cần trao quyền cho nông dân, lắng nghe và đồng hành với nông dân trong tổ chức sản xuất, tổ chức thị trường; tôn trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường; nhờ thế, người nông dân hoàn toàn có thể làm giầu từ nông nghiệp, họ có quyền tự hào về nghề nghiệp của họ, danh giá và vẻ vang như tất cả các ngành nghề khác.
Mục tiêu chung của chính sách phát triển nông nghiệp nói riêng, “tam nông” nói chung, suy cho cùng, là:
(i) Không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân, hình thành tầng lớp nông dân mới chuyên nghiệp, làm nông là một nghề có tri thức, để họ có thể tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào quá trình phát triển của đất nước và bảo vệ Tổ quốc, tự hào và hãnh diện với nghề nghiệp của họ;
(ii) Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, đó là nền nông nghiệp có trách nhiệm, có khả năng cạnh tranh cao, tạo ra giá trị gia tăng cao, hiệu quả kinh tế-xã hội cao, và bền vững;
(iii) Xây dựng nông thôn hiện đại, đó là nông thôn mang hơi thở của thời đại, văn minh, tiện nghi và hiện đại, tạo ra cơ hội cho một đứa trẻ sinh ra ở nông thôn cũng không khác gì cơ hội của một đứa trẻ sinh ra ở thành phố; nhưng vẫn là nông thôn Việt Nam, mang đậm văn hóa của cộng đồng mình, của dân tộc mình, của đất nước mình.
Như vậy là, nông nghiệp không chỉ là lợi thế so sánh, là nguồn lực quan trong của quốc gia, mà còn là lựa chọn gần như duy nhất, nếu như chúng ta muốn đất nước sớm “cất cánh”; các ngành nghề, các lĩnh vựa khác phát triển như thế nào đều cần và phải xoay quanh cái “trục” mang tính quyết định này, đó là NN, NT và ND.
Nền nông nghiệp của chúng ta đang ở đâu?
Nền nông nghiệp Việt Nam về cơ bản vẫn còn là nền nông nghiệp quảng canh, quản trị theo hình thái tiểu nông, nên rủi ro cao và hiệu quả thấp, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa còn thấp hơn nữa, chủ yếu vẫn còn là lấy công làm lãi. Nền sản xuất nông nghiệp ấy được đặc trưng qua các mặt hàng nông sản hàng hóa: sản xuất thô về sản phẩm, thấp về đẳng cấp, tiêu tốn nhiều nguồn lực, ứng dụng KH&CN và cơ giới hóa thấp, sức cạnh tranh với khu vực và thế giới chưa cao; thậm chí, ở một số lĩnh vực còn đi sau thế giới khá xa.
Nông nghiệp chưa gắn bó với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, hỗ trợ nhau cùng nhau phát triển. Số lượng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập cho ngành nông nghiệp còn ít. Vì vậy, nền nông nghiệp vẫn chưa khắc phục được những yếu kém nội tại, kinh tế nông thôn đang phát triển không đồng đều, thiếu ổn định. Thực tế “được mùa mất giá”, “giải cứu nông sản” hết cây này sang con khác, hết năm này qua năm khác là thí dụ điển hình, là minh chứng của một nền sản xuất chưa bền vững, rủi ro cao, giá cả của đầu ra nông sản bấp bênh, sự thua thiệt thường rơi vào người sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ.
Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp thấp do chủng loại sản phẩm chưa đa dạng, kích cỡ không đồng đều, thiếu nhãn mác để nhận diện, chưa có truy xuất nguồn gốc, chưa có thương hiệu trên thị trường. Đa phần sản phẩm nông sản của Việt Nam xuất khẩu ở dạng thô, chưa qua chế biến, chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu; thị trường xuất khẩu lệ thuộc phần lớn vào Trung Quốc; Tăng trưởng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa trên cạnh tranh về giá (giá rẻ), ở phân khúc chất lượng thấp, chưa dựa vào lợi thế cạnh tranh về chất lượng.
Quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ. Diện tích bình quân đất nông nghiệp/người của Việt Nam tiếp tục giảm và ở mức thấp của thế giới; điều đó đã và đang tác động trực tiếp đến những hạn chế trong việc cơ giới hóa, ứng dụng KH&CN, khai thác lợi thế theo quy mô, cũng như việc triển khai ứng dụng các mô hình nông nghiệp tiên tiến.
Sản xuất qui mô nhỏ thể hiện qua diện tích canh tác bình quân dao động từ 0,2 đến 2 ha/hộ và chỉ đạt 0,34 ha/lao động; chỉ có khoảng 5% hộ nông dâncó qui mô ruộng đất trên 3ha,… Đây là mức giảm rất chậm. Diện tích bình quân đất nông nghiệp /người của Việt Nam tiếp tục giảm và ở mức thấp của thế giới, năm 2016 vẫn còn hơn 50% hộ có diện tích nhỏ hơn 0,5ha.
Do sinh kế truyền thống của nông dân dựa vào sản xuất nông nghiệp, nghĩa là dựa vào đất, nên nhiều nông dân có tâm lý giữ đất phòng khi thất cơ lỡ vận thì vẫn có miếng đất cắm dùi, làm cho quá trình tích tụ và tập trung đất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Đất đai manh mún cũng là một trong những cản trở lớn làm doanh nghiệp “ngại” bước chân vào lĩnh vực nông nghiệp.
Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp. |
Mô hình sản xuất nông hộ chậm đổi mới. Hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp ở Việt Nam là nông hộ, chiếm 90% tổng diện tích sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua, kinh tế hộ gia đình đã phát huy hiệu quả, nhưng cũng đã tới ngưỡng “kịch trần” của xu hướng phát triển theo chiều rộng. Các nông hộ chưa chú trọng đầu tư nâng cao giá trị, tìm kiếm thị trường, chỉ sản xuất cái gì mình có mà không theo tín hiệu của thị trường. Rõ ràng, kinh tế hộ vẫn và sẽ mãi là hạt nhân của kinh tế nông thôn, nhưng rất cần nâng lên một tầm cao mới, một vị thế mới. Tiếc là, kinh tế hộ gia đình hiện nay, về cơ bản, vẫn là những gì hộ nông dân đã có từ thời sau đổi mới, sau Khoán 10; chưa có một nghiên cứu nào định hình được chân dung kinh tế hộ gia đình trong thời đại công nghiệp 4.0.
Liên kết ngang trong sản xuất kinh doanh giữa nông dân với nông dân (dưới dạng tổ nhóm sản xuất, hợp tác xã) để nâng cao lợi thế chưa được phát huy do chưa thể hiện được tính thiết thực với nông dân, đặc biệt là hợp tác xã. Các hợp tác xã, đa phần là hợp tác xã kiểu cũ, được khoác cái áo “kiểu mới”, được cho là kém hiệu quả trong việc cung cấp đầu vào và lo đầu ra nên trên thực tế không mấy hấp dẫn các hộ nông dân, đóng góp vào phát triển kinh tế nông thôn còn rất hạn chế. Các mô hình kinh tế hợp tác còn thiếu đồng bộ trong triển khai luật, chính sách, thiếu vốn và trang thiết bị.
Các mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân gặp khó khăn trong đàm phán và ký kết hợp đồng với nhiều hộ, rủi ro cao và chi phí đầu tư lớn. Vì vậy, việc Quốc hội vừa thông qua Luật Hợp tác xã (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, sau khi có hiệu lực, được kỳ vọng sẽ khắc phục được những tồn tại, bất cập trong thời gian qua.
Đầu tư vào nông nghiệp không tương xứng. Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân, nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Từ đó, năng suất nước thấp. Các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp cũng chưa phát triển, đặc biệt là khâu bảo quản sau thu hoạch và logistics. Các ngành công nghiệp chế biến và chế biến sâu nông sản chưa phát triển, đa phần là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu. Điều đó dẫn tới chất lượng nông sản thấp, giá trị gia tăng nhỏ.
Việc hỗ trợ kết nối hình thành chuỗi liên kết sản xuất – phân phối các sản phẩm nông nghiệp chủ lực vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hệ thống kinh doanh nông sản chỉ tập trung vào một số ngành truyền thống hoặc có lợi nhuận cao như lúa gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, điều. Dù đã thành lập các “sàn giao dịch nông sản” nhưng hoạt động của các sàn này còn rất hạn chế, chưa thực chất.
Có quá nhiều chính sách để thu hút nguồn lực vào nông nghiệp nhưng lại không phát huy được hiệu quả. Tác động tích cực của nhiều chính sách “cởi trói” trong nông nghiệp và nông thôn dường như đã tới hạn, thậm chí, một số chính sách lại cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng cho phát triển nông nghiệp chưa thực sự đổi mới và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã và hộ nông dân tiếp cận vốn; tình trạng tín dụng đen vẫn tồn tại, làm suy kiệt sức sản xuất và bần cùng hóa không ít hộ nông dân.
Đời sống kinh tế của người nông dân thấp và bấp bênh. Dù bộ mặt nông thôn đã thay đổi nhiều, thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân dù đã cải thiện nhưng vẫn còn thấp, thu nhập của nông thôn tăng theo thời gian nhưng với tốc độ chậm, trong khi chi tiêu cũng tăng, nên khả năng tích lũy thực tế của hộ nông thôn rất thấp. Vậy nên người nông dân rất khó tự đầu tư mở rộng sản xuất, tự nâng cao trình độ, hay tự ứng phó với những cú sốc về giá cả hay các tai biến về thời tiết, dịch bệnh.
Chuyển dịch cơ cấu lao động vẫn chậm. Tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn thấp, chỉ ở mức 2-3% nhưng thời gian lao động thực tế không cao, tình trạng này gần giống như lãn công trong các ngành công nghiệp, dịch vụ, dù về bản chất thì hoàn toàn không như vậy. Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng, nhưng thời kỳ này đang qua đi nhanh, chúng ta hầu như chưa chuẩn bị gì để sẵn sàng đón nhận thời kỳ “vàng” quý giá này cho nông nghiệp, nên lao động nông nghiệp Việt Nam đa số vẫn còn ở trình độ thấp, thể hiện qua con số: có khoảng 70% số lao động chưa qua bất kỳ một khóa đào tạo chuyên môn nào; mới có 4% lao động qua đã qua đào tạo, lao động có trình độ đại học chỉ chiếm khoảng 9%.
Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, Việt Nam nằm trong quốc gia có tỷ lệ lao động thất nghiệp thấp, chỉ 2,28%. |
Lao động nông nghiệp thiếu kiến thức khoa học, thiếu kiến thức quản trị sản xuất, thiếu thông tin thị trường, nên chưa giúp doanh nghiệp và nông dân có quyết định đúng để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao thu nhập cho người nông dân. Phần lớn nông dân nước ta sản xuất ra sản phẩm hôm nay không biết ngày mai bán cho ai, ở đâu, giá cả thế nào, bao gói ra sao, thấy hàng xóm trồng thì trồng, thấy hàng xóm nuôi thì nuôi, “muôn sự tại trời”.
Ở các vùng ven đô, xu hướng đô thị hóa khiến một bộ phận nông dân mất cơ hội sản xuất nông nghiệp trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ cho việc chuyển đổi ngành nghề, tạo sinh kế mới phi nông nghiệp.
Xu hướng di cư ra khỏi khu vực nông thôn đang diễn ra mạnh nhưng số lượng tuyệt đối các hộ sống ở nông thôn vẫn tiếp tục tăng. Nông dân chuyển đổi sinh kế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, nhưng tỷ lệ lao động làm việc phi chính thức rất cao, khoảng 55%. Tỷ lệ người già phụ thuộc (từ 65 tuổi trở lên) chiếm hơn 10% tổng dân số nông thôn và sẽ tiếp tục tăng cùng với hàng triệu lao động từ các khu công nghiệp sẽ quay về nông thôn do tác động của cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ tư, cũng là một gánh nặng không nhỏ cho phát triển nông thôn.
Nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn phục vụ nông nghiệp chậm được triển khai. Các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến và chế biến sâu, và các lĩnh vực khoa học của kỷ nguyên số như IoT, Bigdata, AI, Blockchain, Robotics và gần đây là Tính toán lượng tử… ứng dụng vào nông nghiệp do thiếu nhân lực trình độ cao và đầu tư thiếu đồng bộ, nên chậm được triển khai.
Điều kiện vật chất kỹ thuật của các cơ sở nghiên cứu, đào tạo bị tụt hậu, không đồng bộ so với nhu cầu, nhiệm vụ và so với mặt bằng chung của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về nông nghiệp của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới mà chúng ta đang hướng tới. Điều này, dẫn đến tình trạng đào tạo nhân lực cho khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyết với thực hành, thiếu các nghiên cứu chuyên sâu nâng cao giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm nói riêng, cho sức mạnh cạnh tranh của nông sản Việt nói chung. Nhà nước lại chưa có chính sách ưu tiên rõ ràng và hấp dẫn cho sinh viên các ngành nông nghiệp, nên khó thu hút được các học sinh giỏi vào học, chưa tạo thanh sức hút xã hội trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Làng, không gian sinh tồn của người nông dân, đang bị ‘biến dạng’. Diện mạo và đặc trưng của nông thôn Việt Nam là làng; không gian sống của người nông dân, cụ thể và gắn bó nhất, là làng. Vì vậy, có lẽ là, làng phải là đơn vị trung tâm trong phát triển nông thôn nói chung, trong xây dựng Nông thôn mới nói riêng, chứ không phải xã, huyện hay tỉnh. Vì đây chỉ là các đơn vị hành chính theo mô hình quản trị tập quyền trong quản lý lãnh thổ và dân cư. Khi chúng ta phát triển nông thôn, xây dựng Nông thôn mới, cần gạn đục khơi trong để làng vẫn chứa đựng các không gian văn hóa đặc trưng xưa của làng nhưng với hơi thở mới, mang tính thời đại.
Những thách thức và yếu điểm của ngành nông nghiệp Việt Nam
Thách thức từ bên ngoài:
– Biến đổi khí hậu đã tạo ra thách thức vô cùng to lớn đối với việc sử dụng tài nguyên nước, tài nguyên đất và tài nguyên sinh học.
– Dịch bệnh bất thường, khó kiểm soát.
– Căng thẳng thương mại, các xung đột địa-chính trị, xung đột tôn giáo, văn hóa.
– Sự thiếu phối hợp, thiếu thiện chí giữa các quốc gia trong cùng một lưu vực tạo ra những căng thẳng ngày càng tăng về tài nguyên nước.
– Quá trình toàn cầu hóa, đa phương hóa mạnh mẽ cũng là một thách thức lớn (song cũng đồng thời là cơ hội, nếu biết cách biến “nguy” thành “cơ”) khi gắn với chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, với các hàng rào phi thuế quan, các biện pháp phòng vệ tinh vi.
– Cạnh tranh thị trường ngày càng trở nên gay gắt hơn.
– Áp lực từ các tập đoàn siêu quốc gia trong việc xây dựng và phát triển nền NN hội nhập cao, nhưng vẫn là nền NN độc lập, tự chủ.
Khó khăn và yếu điểm nội tại:
– Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp thời gian qua chủ yếu được hình thành tự phát do thị trường truyền thống của Trung Quốc chi phối. 75-80% nông sản xuất sang Trung Quốc, chủ yếu con đường tiểu ngạch, nhưng ay thị trường Trung Quốc đã thay đổi.
– Thị trường trong nước bị thả nổi, việc kiểm soát chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt.
– Nguyên liệu, vật tư đầu vào cho sản xuất nông nghiệp nhập khẩu nhiều.
– Sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp thời gian qua chủ yếu mang tính quảng canh, dựa trên thâm dụng tài nguyên thiên nhiên và thâm dụng lao động, lấy sản lượng, năng suất là chính, chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng, hiệu quả kinh tế, giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa.
– Sự thâm dụng tài nguyên và thâm canh quá mức còn gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên.
– Nền nông nghiệp chưa gắn với công nghiệp thành một hệ thống để bổ sung, tương trợ lẫn nhau, cùng nhau phát triển; Số lượng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò dẫn dắt trong quá trình hội nhập cho ngành còn ít.
– Tác động tích cực của nhiều chính sách “cởi trói” trong nông nghiệp và nông thôn dường như đã tới hạn, thậm chí, một số chính sách lại cản trở sự phát triển; có quá nhiều chính sách để thu hút nguồn lực vào nông nghiệp và nông thôn nhưng lại không phát huy được hiệu quả. Trong khi đó, nếu doanh nghiệp không “vào cuộc” thì không thể đưa nông nghiệp và nông thôn hiện nay thành nền nông nghiệp và nông thôn số, nông nghiệp và nông thôn thông minh, nông nghiệp và nông thôn hữu cơ, có giá trị gia tang cao và sức cạnh tranh mạnh.
– Tốc độ đô thị hóa cao lại thiếu qui chuẩn và thiếu kiểm soát, nên văn hóa nông thôn, nơi chứa đựng hồn cốt văn hóa Việt đang phải đối mặt với sự du nhập của nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai; không ít yếu tố ngoại lai trở thành lực cản, phản động lực, phản phát triển trong tiến trình xây dựng nông thôn mới; sự tăng tiến về vật chất nhưng chưa đi liền với sự phát triển của đời sống văn hóa tinh thần, khiến nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp bị mai một.
Hơn thế, vấn đề cần quan tâm ngay về thực trạng được gọi là “hụt hẫng văn hoá”, khi cái cũ bị xoá bỏ hoặc muốn được xóa bỏ, nhưng cái mới lại chưa hình thành để thay thế, là những trở ngại lớn trên con đường phát triển nông thôn, nhất là nông thôn miền núi, rất cần được nghiên cứu và tìm hiểu thấu đáo.
– Thiếu các chính sách và hành động cụ thể, thiết thực để xây dựng nền nông nghiệp và nông thôn hội nhập sâu rộng, nhưng vẫn là nền nông nghiệp và nông thôn Việt Nam độc lập, tự chủ. Hầu như các loại giống cây trồng từ lúa, hoa màu, rau quả đến các giống vật nuôi cao sản, máy móc, thiết bị, phần lớn vật tư NN… đều là “hàng ngoại nhập”; ví dụ, hơn 90% số máy kéo bốn bánh và máy công tác kèm theo, máy gặt đập liên hợp, phải nhập khẩu. Điều này tạo ra thách thức về sự gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm ngoại nhập, dù năng lực sản xuất của ngành nông nghiệp và nông thôn Việt Nam là vô cùng lớn.
– KH&CN trong nông nghiệp và nông thôn chưa mạnh, chưa đủ sức gánh vác và giải quyết những vấn đề do thực tiễn phát triển NN trong nước và yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi. Mức độ đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp và nông thôn thấp, cho KH&CN nông nghiệp và nông thôn còn thấp hơn nữa so với nhu cầu cần phải có cũng như so với mặt bằng chung của các nền nông nghiệp và nông thôn tiên tiến; mặc dù một số doanh nghiệp lớn đã bắt đầu chuyển sang đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn nhưng nhìn chung vẫn còn rất ít; đầu tư nước ngoài vào NN không đáng kể. Việc xây dựng nền NN ứng dụng công nghệ cao chậm chuyển biến, chưa tạo đột phá để nâng cao giá trị gia tăng và tạo cơ sở vững chắc cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất NN theo hướng hiệu quả và bền vững.
Đội ngũ cán bộ KH&CN nông nghiệp và nông thôn tuy đông nhưng chưa đủ mạnh, trong khi cuộc cách mạng về KH&CN trên thế giới phát triển rất nhanh. Năng suất lao động của nông dân Việt Nam đang còn thấp, thuộc nhóm thấp nhất châu Á. Trong những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đây là khu vực có tốc độ tăng năng suất lao động năng suất lao động bình quân cao nhất với 5,2%/năm trong những năm gần đây, cao hơn tốc độ tăng bình quân của khu vực công nghiệp và xây dựng (3%/năm) và khu vực dịch vụ (3,1%/năm).
Tuy vậy, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản lại có mức năng suất lao động rất thấp, thấp nhất trong các lĩnh vực kinh tế, chỉ bằng 38,9% năng suất lao động của toàn nền kinh tế, bằng 30,4% năng suất lao động của khu vực công nghiệp và xây dựng, bằng 33,7% khu vực dịch vụ. Trong các nước ASEAN, NSLĐ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Phi-li-pin đều cao gấp 1,8 – 11,9 lần năng suất lao động của Việt Nam (số liệu 2020).
Đa phần sản phẩm nông sản của Việt Nam xuất khẩu ở dạng thô, chưa qua chế biến, chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu. |
– Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp và nông thôn kém do chủng loại sản phẩm chưa đa dạng, chất lượng thấp, kích cỡ không đồng đều, thiếu nhãn mác để nhận diện, chưa có truy suất nguồn gốc, chưa có thương hiệu trên thị trường. Đa phần sản phẩm nông sản của Việt Nam xuất khẩu ở dạng thô, chưa qua chế biến, chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu.
– Dù bộ mặt nông thôn đã thay đổi nhiều, thu nhập và đời sống của phần lớn nông dân đã cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp, thu nhập của cư dân nông thôn tăng theo thời gian nhưng với tốc độ chậm, trong khi chi tiêu cũng tăng, nên thu nhập theo con số tuyệt đối chưa cao, thu nhập thực tế của cư dân nông thôn nói chung, nông dân nói riêng còn rất thấp. Do đó, khả năng tích lũy thực tế của hộ nông thôn rất thấp, chưa bằng 50% hộ thành thị, tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn cao gấp 3,7 lần thanh thị, 40% hộ nông thôn không có tích lũy, 84% lao động NN không có tiền để dành.
– Chuyển dịch cơ cấu lao động vẫn chậm, lao động nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đa số vẫn còn ở trình độ thấp, thể hiện qua con số: có khoảng 70% số lao động chưa qua bất kỳ một khóa đào tạo chuyên môn nào; mới có 4% lao động qua đã qua đào tạo, lao động có trình độ đại học chi chiếm khoảng 9%.
– Việc hỗ trợ kết nối hình thành chuỗi liên kết sản xuất – phân phối các sản phẩm NN chủ lực vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
– Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và đóng góp của ngành nn đối với nền kinh tế quốc dân.
Nhiều cơ hội đang mở ra cho nền nông nghiệp Việt Nam
Để tận dụng tốt các cơ hội của ngành nông nghiệp Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua các thách thức, khó khăn, biến nguy cơ thanh thời cơ để phát triển nông nghiệp, phát triển đất nước. Cơ hội có nhiều, mỗi người có thể có những quan điểm khác nhau, nhưng có lẽ có hai cơ hội quan trọng nhất nền nông nghiệp Việt Nam cần tận dụng. Đó là:
Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng hơn, việc ký kết, thực thi và đang đàm phán gần 20 hiệp định thương mại tự do sẽ có tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng nhờ thị trường nông sản quốc tế tiếp tục được mở rộng. Vị thế của ngành NN chắc chắn là sẽ gia tăng mạnh mẽ thông qua cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang các đối tác trong EVFTA, RCEP và các thể chế thương mại khác, rộng hơn nhiều so với WTO. Chất lượng nông sản sẽ chinh phục và mở rộng thị trường, ở đó chứa đựng hình hài, tầm vóc và vị thế của văn hóa Việt, chứa đựng sức mạnh nội tại của dân tộc Việt.
Với những vận hội mới từ hội nhập, các nhà đầu tư trong và ngoài nước không còn thờ ơ với nông nghiệp nữa, ngành nông nghiệp sẽ đón những dòng đầu tư mới, nhất là đầu tư vào nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, công nghiệp hỗ trợ cho ngành nông nghiệp – những lĩnh vực hiện nay còn bỏ ngỏ do chúng ta đang thiếu nguồn lực. Các tác động lan tỏa từ gia tăng đầu tư vào nông nghiệp sẽ thực sự quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, khi gánh nặng của ngành nông nghiệp nội địa được san sẻ, các khó khăn, thách thức sẽ chuyển thành cơ hội.
Tầng lớp nông dân mới, nông dân của thời 4.0, đang hình thành và phát triển, họ có đủ trí tuệ và phẩm chất để kiến tạo nên một nền nông nghiệp Việt Nam mới, với vai trò trụ cột thuộc về các hợp tác xã, các doanh nghiệp nông nghiệp, các hiệp hội ngành hàng do họ làm chủ.
Bài 2: Khuyến nghị một số giải pháp đột phá tháo gỡ nút thắt về thể chế, chính sách
GS.TS Trần Đức Viên Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam |